Sau khi quyết định sẽ ra ngoài, Bạch Nhược Hiên liền tranh thủ những ngày dưỡng thương để sắp xếp hành trang chuẩn bị lên đường.
Trước hết, nàng tìm hiểu về các môn phái khác nhau trên giang hồ, để tránh ngày sau đắc tội người không thể đắc tội, dẫn đến hoạ sát thân. Họ lập kế hoạch trước tiên đi đến Nam Hỏa Môn gần bọn họ nhất để giúp đỡ, sau đó đến Hắc Thủy Đàm để cứu người của Bắc Thủy Môn. Chuyện sau đó nữa sẽ từ từ tính toán, dù sao thì kế hoạch sẽ không theo kịp những thay đổi.
Đợi đến sau khi Bạch Nhược Hiên khỏi hẳn, các nàng gửi hai bức thư đến Thụy Vương phủ và Bạch phủ, ý tứ đại khái là các nàng muốn ra ngoài học hỏi, nói gia đình đừng nên quá lo lắng.
Sau khi Thuỵ Vương nhận được tin cũng không có phản ứng quá lớn, ông ấy hiểu nữ nhi của mình tính tình bướng bỉnh, cũng biết một Quận mã phủ nho nhỏ không thể chứa nổi nàng.
Còn Bạch Trọng sau khi nhận được tin lại tức đến mặt mũi tái mét, đánh vỡ hết tất cả chén đĩa trên bàn. Bạch Nhược Hiên đã bỏ lỡ kỳ thi Hương mỗi năm chỉ có một lần, trong lòng ông ta chưa tan cơn giận, hôm nay lại còn bỏ nhà trốn đi. Ông ta xanh mặt mấy ngày, sau khi biết mọi chuyện đã không cách nào thay đổi, có tức giận cũng vô ích, lúc này mới thầm mắng mỏ đứa con bất hiếu này trong lòng.
Tết trùng cửu[1], thời tiết lạnh lẽo, ngưng kết cả sương. Lúc này đã qua Hàn lộ[2], khí trời từ se lạnh chuyển sang vô cùng rét buốt.
Ở ngoại thành Ung Đô, hai con ngựa một đen một trắng đang phi nước đại.
Cưỡi ngựa trắng là một nữ tử áo trắng, tà áo phiêu động theo vó ngựa phi, dây cột tóc màu trắng tung bay trong gió. Cưỡi ngựa đen là một nam tử áo đen, đầu đội khăn tiêu dao, phiêu dật tự nhiên. Các nàng một người vô cùng trắng, một lại vô cùng đen, vì tốc độ cực nhanh nên chỉ có thể nhìn thấy một đoàn bóng trắng và đen vụt qua.
Thụy Triều Tích và Bạch Nhược Hiên để thư lại trốn đi, giờ phút này chỉ muốn mau mau rời khỏi Ung Đô thành, tốt nhất là chạy càng xa càng tốt, để tránh bị người ta đuổi theo trở về. Các nàng ngựa không ngừng vó đi về phía nam, khi đói liền cho ngựa đi chậm lại, ngồi trên ngựa ăn chút lương khô, sau khi ăn no lại tiếp tục lên đường. Rốt cuộc, sau ba ngày cũng đến được một thị trấn phồn vinh, cảm thấy nơi này cách Ung Đô đã đủ xa, đi suốt đêm cũng có chút mệt mỏi, liền chọn một khách sạn để ở.
Tối hôm ấy, các nàng thuê chung một gian phòng, Bạch Nhược Hiên trước sau như một ôm chăn bông chuẩn bị lên tháp ngủ.
Thụy Triều Tích thấy thế nhíu mày, thầm nghĩ: ‘Đã qua Hàn lộ khí trời rét lạnh, ngủ trên tháp sẽ dễ bị cảm.’ Nàng kéo ống tay áo Bạch Nhược Hiên, nói: “Hiện tại không thể so với mùa hè, ngươi vẫn nên lên giường ngủ đi.”
Sau khi bị gia pháp trừng trị, quan hệ giữa các nàng lại khôi phục như lúc vừa thành thân, Bạch Nhược Hiên cũng không làm ra chuyện gì vượt qua lễ nghi, ngay cả một ngón tay của Thụy Triều Tích cũng không dám đụng.
Thụy Triều Tích vì chuyện này mà vô cùng buồn bực, thế nên thường chủ động làm ra những hành động thân thiết với Bạch Nhược Hiên. Nàng biết tình cảm của mình dành cho Bạch Nhược Hiên nhiều hơn sự oán giận, cũng không bài xích việc nàng ấy là nữ tử, nhưng nàng cũng không định nói ra những chuyện này. Suy cho cùng, nữ hài tử vẫn nên có chút e thẹn, những chuyện này cũng không tiện miễn cưỡng.
Dĩ nhiên Bạch Nhược Hiên rất muốn thân cận cùng Thụy Triều Tích, nhưng nàng lại sợ làm như vậy sẽ khiến Thụy Triều Tích chán ghét nàng. Nàng thường hay nghĩ: ‘Nếu Quận chúa không chán ghét ta là nữ tử thì không còn gì tốt hơn, ta có thể ở bên cạnh nàng ấy đã vô cùng thoả mãn, nếu làm ra chuyện gì khiến nàng chán ghét thì thật không ổn.’ Bởi vậy mà nàng luôn thận trọng trong mọi việc, chỉ sợ làm sai điều gì chọc giận đến Quận chúa.
Lúc này Quận chúa sợ nàng lạnh, gọi nàng lên giường ngủ, tất nhiên trong lòng nàng mừng rỡ như điên, nhưng vẫn nghiêm trang nói: “Ta ngủ không an phận, vẫn nên ngủ trên tháp thì hơn.”
Thụy Triều Tích cau mày nói: “Lề mề cái gì? Bảo ngươi ngủ trên giường thì ngươi cứ lên ngủ đi.” Nàng dịch người vào trong, nhường nửa giường bên ngoài cho Bạch Nhược Hiên.
Cau mày, là dấu hiệu biểu thị sự bất mãn của Thụy Triều Tích. Bạch Nhược Hiên biết người nọ không vui, cũng không từ chối nữa, cởi giày tất rồi lên giường. Sau khi chui vào chăn liền ngửi thấy hương thơm thoang thoảng, rất quen thuộc, rất dễ chịu. Nàng biết, đó là mùi hương trên người Thụy Triều Tích. Nàng che đầu, trong hơi thở ngập tràn mùi thơm của Thụy Triều Tích, nàng hít sâu, cảm thụ, âm thầm cảm thụ. Thụy Triều Tích trở mình, nàng lập tức cứng đờ không dám nhúc nhích. Qua hồi lâu, cảm thấy hô hấp của Thụy Triều Tích đã ổn định, xác định nàng ấy đã ngủ say, lúc này mới ngồi dậy kéo kín góc chăn để tránh cho nàng ấy bị cảm lạnh.
Ánh nến trong phòng không ngừng nhảy nhót, nàng không chớp mắt nhìn khuôn mặt say ngủ của Thụy Triều Tích, khóe môi cong lên một nụ cười. Lúc này, nàng cảm thấy có thể ngắm Thuỵ Triều Tích ở khoảng cách gần như vậy, chính là chuyện hạnh phúc nhất thế gian.
Hít một hơi, thời gian trôi qua thật nhanh, nháy mắt thấy ngọn nến đã sắp cháy hết, cuối cùng Bạch Nhược Hiên cũng rúc vào chăn, nhưng vẫn không dám đến gần Thuỵ Triều Tích, ở giữa để ra một khoảng rộng cỡ cái bát.
Hôm sau, trời vừa tờ mờ sáng, Bạch Nhược Hiên tự động tỉnh dậy, cảm giác trong ngực ấm áp dị thường, vừa cúi đầu xuống nhìn, lập tức há hốc mồm, tim đập loạn nhịp.
Giờ phút này, Thụy Triều Tích đang ngủ say trong vòng tay nàng. Nàng không hiểu tại sao lại như thế, nhất thời đầu óc kêu ong ong, toàn thân cứng đờ không dám nhúc nhích. Đợi đến khi nhịp tim vững vàng mới cẩn thận rút cánh tay ra, định ra ngoài lấy nước rửa mặt.
Mới vừa rút được cánh tay mình ra, tay Thụy Triều Tích lại khoác lên eo của nàng. Nàng cong eo, nhẹ nhàng lách ra khỏi tay Thụy Triều Tích, mới vừa ngồi dậy thở ra một hơi, Thụy Triều Tích lại vòng hai tay qua eo nàng.
Cơ thể Bạch Nhược Hiên cứng đờ, sau khi gỡ tay Thụy Triều Tích lần thứ hai, trên trán nàng đã rịn ra một tầng mồ hôi mỏng. Sau khi điều chỉnh thân thể Thụy Triều Tích nằm ngay ngắn, giúp nàng ấy đắp kín chăn mới mặc quần áo đi ra ngoài. Bước chân nàng có chút rối loạn, chỉ biết tự an ủi bản thân rằng mình quá căng thẳng.
Thời điểm Bạch Nhược Hiên vừa xoay người mở cửa, Thụy Triều Tích liền mở mắt, nhớ đến cơ thể cứng ngắc và nhịp tim đập ầm ầm của Bạch Nhược Hiên, không khỏi hé miệng cười một tiếng. Có lẽ do đi đường mệt mỏi, tối hôm qua vừa nằm xuống giường nàng liền ngủ thiếp đi, trong mơ cảm thấy bên cạnh vô cùng ấm áp, khiến nàng vô thức muốn đến gần, hôm sau tỉnh lại mới biết sự ấm áp này là của Bạch Nhược Hiên. Nàng tỉnh dậy sớm hơn Bạch Nhược Hiên, vừa thấy Bạch Nhược Hiên mở mắt liền nhắm mắt giả vờ ngủ, sự quẫn bách của Bạch Nhược Hiên lúc này là kết quả mà nàng mong muốn, là do nàng cố ý gây nên.
Gió thổi vi vu, mưa bay lất phất.
Đi thẳng về phía nam, trên đường đi các nàng rất kín đáo, không bênh vực kẻ yếu, cũng không tùy tiện hỏi thăm người khác. Các nàng biết rõ, lần này xuôi nam liên quan đến tính mạng của rất nhiều người, trách nhiệm không nhỏ, không muốn xảy ra sai sót. Hôm đó, các nàng đến khu vực trung tâm của một toà thành nọ, định mua một ít lương khô.
Vừa bước ra khỏi cửa hàng, Bạch Nhược Hiên đột nhiên dừng bước, ngay sau đó cùng Thụy Triều Tích liếc mắt nhìn nhau, hai người tản ra, chia làm hai hướng mà đi.
Bạch Nhược Hiên chậm rãi đi vào một nơi vắng người, đứng chắp tay. Vừa đứng lại, liền thấy một người bước ra khỏi khúc quanh, chỉ thấy hắn mặc một bộ áo vải, mặt mũi hung tợn, nhìn bộ dáng chừng bốn mươi tuổi.
Người nọ cười hắc hắc, nói: “Tiểu bằng hữu, đại gia muốn hỏi mượn ngươi một ít ngân lượng để dùng! Thức thời thì giao hết bạc trên người ra đây, nếu không đừng trách đại gia ta không khách khí!”
Gã trung niên theo dõi hai người Thuỵ Bạch đã lâu, hắn thua bạc, trùng hợp nhìn thấy một đôi trẻ tuổi ăn vận đẹp đẽ đi qua trước mặt mình, nghĩ các nàng không phú tức quý, tất nhiên trên người không thể thiếu ngân lượng, liền muốn giữa đường chặn cướp. Mắt thấy hai người chia nhau mà đi, lập tức cảm thấy cơ hội đã tới, xoay người đuổi theo nam tử áo đen. Hắn chỉ một lòng muốn đối phó thiếu niên ở trước mắt nên cũng không chú ý đến động tĩnh phía sau. Đột nhiên, trên lưng chợt lạnh, cảm thấy có vật cứng đang đè lên hông của mình.
Gã trung niên giật mình vì biến cố bất ngờ, xoay đầu nhìn lại, nhìn thấy rõ là thiếu nữ đồng hành cùng thiếu niên kia. Thấy nàng là nữ lưu yếu đuối, trong lòng có đôi chút yên tâm, hắn xoay tay trái, đoạt đi dao găm trong tay Thụy Triều Tích, thuận thế bắt nàng, sau đó hướng về phía Bạch Nhược Hiên quát lên: “Tiểu tử thối, dám giở trò với đại gia! Giao ngân lượng ra đây, ta sẽ tha cho ngươi một mạng, bằng không, ta sẽ giết chết cô gái này!”
Bạch Nhược Hiên biết với thân thủ của Thụy Triều Tích, căn bản sẽ không bị một tên lưu manh khống chế, nàng lấy ra một túi bạc vụn, nói: “Thả nàng, những thứ này đều là của ngươi.” Nói xong ném túi bạc sang.
Gã trung niên không rảnh tay, gác dao găm lên cổ Thuỵ Triều Tích, nói: “Nhặt túi bạc lên, giao cho ta.”
Thụy Triều Tích khom lưng nhặt bạc giao cho hắn, nói: “Vị đại gia này, bạc ngươi đã lấy được, nên thả bản cô nương ra.”
Gã trung niên cũng không phải là kẻ ngu ngốc, sau khi thu túi bạc vào trong ngực, nói với Bạch Nhược Hiên: “Ngươi lui về phía sau năm bước, ta an toàn sẽ thả nàng.” Thấy Bạch Nhược Hiên đã lui về phía sau, hắn liền đẩy Thuỵ Triều Tích ra rồi lập tức bỏ chạy.
Bạch Nhược Hiên thấy hắn đi xa, tiến lên phía trước nói: “Bạc không thể tặng không, đi theo xem thử?”
Theo chân gã trung niên đi vào một sòng bạc, các nàng hoà vào đám người ở khá xa, khinh thường thói nghiện cờ bạc của gã trung niên.
Bạch Nhược Hiên cũng không xa lạ với những sòng bạc ngư long hỗn tập thế này, sòng bạc ở Ung Đô còn to hơn nơi này gấp mấy lần, che miệng hỏi: “Rõ ràng người nọ chỉ là một con bạc, có chỗ nào đáng ngờ sao?” Nàng đoán chừng Thụy Triều Tích có lý do nên mới cố ý làm như vậy.
Thụy Triều Tích nói: “Lúc trước gió thổi bay chéo áo của hắn, ta phát hiện trên đó có dấu hiệu của Nam Hỏa Môn. Nam Hỏa Môn là danh môn chính phái, môn nhân đều là chính nhân quân tử, để những nhân vật thế này lẫn vào, không khỏi có chút hữu danh vô thực, có lẽ đi theo hắn sẽ có chút phát hiện. Chuyến đi này không thể bất cẩn, nhất định phải thăm dò lai lịch của Nam Hỏa Môn, nếu không đến lúc đó dê vào miệng cọp, chết thế nào cũng không biết.”
Bạch Nhược Hiên nói: “Chẳng trách nàng cố tình thả hắn đi, để xem ngoài đánh bạc hắn còn có thể làm gì.” Trong lòng lại nói: ‘Mặc dù Quận chúa tinh thông võ nghệ, nhưng dù sao cũng là danh môn khuê tú lớn lên ở khuê phòng, tại sao đối với chuyện giang hồ lại lão luyện như vậy?’ Nàng không biết Thụy Triều Tích chính là Hắc Ưng, thường giao thiệp cùng người trong giang hồ mới có thể suy tính sâu xa như vậy.
Có câu “Tiểu đổ di tình, đại đổ thương thân”[3], gã trung niên vì thua tiền nên mới cướp của lấy tiền đánh bạc, kết quả càng lún càng sâu, phút chốc mất sạch. Nhìn thấy trước mặt nhà cái đầy bạc, trước mặt mình lại trống trơn, tất nhiên trong lòng sẽ cảm thấy không thoải mái. Hắn thất thểu trở về nhà, vừa ngồi xuống liền có người gõ cửa, hắn vừa đi ra mở cửa vừa mắng: “Thứ dê con ba ba nào rảnh rỗi đến tìm ta vậy?”
————————-
[1] Tết trùng cửu (còn gọi là Tết Trùng Dương, Tết người cao tuổi, Tết người già) được diễn ra vào ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch hàng năm. Con số 9 được coi là số dương, sự lặp lại hai lần số 9 nên gọi Trùng Cửu, Trùng Dương là vì vậy.
Năm 221 trước Công nguyên, sau khi thống nhất đất nước Trung Hoa, nhà Tần đã tổ chức hoạt động cúng tế chúc mừng mùa màng bội thu vào tháng 9 âm lịch hằng năm trên khắp cả nước. Ngày mùng 9 tháng 9 được xem là ngày rất tốt lành và tết Trùng Cửu ra đời từ đó, mang ý nghĩa chúc mừng mùa màng bội thu. Tuy nhiên lịch sử đã đem đến cho tết Trùng Cửu thêm nhiều ý nghĩa khác.
Tích kể rằng, vào đời Hậu Hán (25-250), có một người rất thần thông quảng đại, tên là Phí Trường Phòng. Ông ta không những có thể cầu mưa, gọi gió, mà còn có thể đuổi thần, bắt ma. Có một người thanh niên tên là Hoàng Cảnh biết được tin này, rất tôn kính ông, xin ông nhận làm trò. Do người thanh niên này có quyết tâm rất lớn, ông Phí Trường Phòng đành phải nhận làm học trò, dạy anh thần phép. Một hôm thầy nói với trò: “Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hạt thù du, uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn”. Hoàng Cảnh vâng theo lời căn dặn của thầy. Đến sáng sớm hôm đó, người học trò này đã đưa cả gia đình của mình lên một dốc cao ở gần đó. Tối đến khi về đến nhà hết sức kinh ngạc nhìn thấy, trâu bò, cừu, chó, gà đều chết hết, nhưng cả gia đình đã tránh được nạn. Từ đó, ngày trùng cửu trèo núi, tập tục đeo túi thơm đựng hạt thù du uống rượu hoa cúc đã thành thói quen và lưu truyền hơn 2000 năm.
Còn có một truyền thuyết khác gắn với ngày tết trùng cửu của Trung Quốc là: cuối đời nhà Hạ, vua Kiệt dâm bạo tàn ác, Thượng Đế muốn răn nhà vua nên giáng một trận thủy tai làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, nhân dân chết đuối, thây nổi đầy sông. Nạn thủy tai đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy, mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn… Tục ấy thành lệ.
Còn có sách viết, đến đời Hán Văn Đế, vua cho dựng một đài cao 30 trượng ở trong cung, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 9, nhà vua cùng vương hậu, vương tử, cung phi đem nhau lên đài ở cho qua hết ngày ấy. Sau đến đời nhà Đường (618-907), ngày mồng 9 tháng 9 thành ngày lễ tết gọi là Trùng Cửu. Các văn nhân thi sĩ mang bầu rượu túi thơ cùng nhau lên núi cao say sưa ngâm vịnh. Ở Trung Quốc có một bài thơ cổ được lưu hành rộng khắp đã miêu tả tập tục của ngày tết Trùng cửu. Bài thơ này là tác phẩm nổi tiếng của Vương Duy – nhà thơ lớn đời nhà Đường với tựa đề: “mồng 9 tháng 8 nhớ anh em Sơn Đông”. Lúc đó, ông Vương Duy mới có mười mấy tuổi nơi đất khách Bắc Kinh, sao khỏi có đôi lúc nhớ nhà, nhất là mỗi dịp tết đến, thấy người khác gia đình đoàn tụ, khiến ông càng nhớ đến người thân.
Ngày nay, người dân Trung Quốc đã gửi gắm một ý nghĩa mới cho ngày tết Trùng Cửu. Năm 1989, Trung Quốc xem tết Trùng Cửu là tết của người già. Như vậy, ngày 9 tháng 9 vừa bao gồm ý nghĩa vốn có của ngày tết Trùng Cửu truyền thống vừa biểu đạt lòng tôn kính người già của mọi người, chúc các cụ mạnh khỏe, sống lâu.